Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2020

Tình hình đăng ký bảo hộ sáng chế liên quan đến nhựa phân hủy sinh học theo thời gian

1. Tình hình đăng ký bảo hộ sáng chế liên quan đến nhựa phân hủy sinh học theo thời gian

Theo khảo sát tình hình đăng ký sáng chế dựa trên CSDL Thomson Innovation: 16 

- Khoảng 1446 Sáng chế có liên quan đến nhựa phân hủy sinh học đã được đăng ký bảo hộ (từ 1977 – 2015). 

- Sáng chế đầu tiên: năm 1977 nộp đơn tại Pháp liên quan đến thiết kế tạo ra một loại hộp làm từ nhựa phân hủy sinh học.

- Từ 1977 – 1989: lượng SC nộp đơn đăng ký không nhiều (< 10 SC/năm)

 - Năm 1990: lượng SC tăng vọt (gần 30 SC) - Từ năm 1990 trở đi lượng SC đăng ký có tăng giảm qua các năm nhưng vẫn theo chiều hướng tăng dần, đỉnh điểm vào năm 2002 với 92 SC. 

Tình hình đăng ký SC liên quan đến bao bì (túi nhựa) phân hủy sinh học theo thời gian:

Năm 1994: có SC đầu tiên đăng ký 

- Từ 1994 – 2014: Gần 50 SC đã đăng ký bảo hộ 

=> Nhìn chung lượng SC đăng ký bảo hộ liên quan đến bao bì (túi nhựa) phân hủy sinh học chưa nhiều, mỗi năm chỉ một vài SC có đăng ký bảo hộ. 



2. Tình hình đăng ký bảo hộ sáng chế liên quan đến nhựa phân hủy sinh học ở các quốc gia

Cũng theo khảo sát trên CSDL Thomson Innovation, hiện nay sáng chế có liên quan đến nhựa phân hủy sinh học đang được nộp đơn đăng ký bảo hộ ở khoảng 42 quốc gia trên toàn thế giới.

Bên cạnh việc nộp đơn đăng ký bảo hộ ở các quốc gia, sáng chế liên quan đến nhựa phân hủy sinh học còn được nộp đơn đăng ký bảo hộ ở 2 tổ chức sở hữu trí tuệ lớn

Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WO): 80 SC

 - Tổ chức sở hữu trí tuệ châu Âu (EP): 79 SC

- 10 quốc gia được các chủ sở hữu sáng chế nộp đơn đăng ký nhiều nhất là:

 - Nhật Bản (JP): 444 SC

 - Trung Quốc (CN): 318 SC 

- Mỹ (US): 117 SC 

- Hàn Quốc (KR): 87 SC 

- Đức (DE): 47 SC 

- Úc (AU): 42 SC 18 

- Đài Loan (TW): 35 SC 

- Canada (CA): 31 SC 

- Brazil (BR): 30 SC 

- Ấn Độ (IN): 19 SC 

Tình hình đăng ký SC liên quan đến bao bì (túi nhựa) phân hủy sinh học ở các quốc gia:

Với gần 50 SC được nộp đơn đăng ký bảo hộ từ 1994 – 2014 ở 14 quốc gia và tổ chức trên thế giới, SC liên quan đến túi nhựa PHSH đã được nộp đơn đăng ký bảo hộ ở một số quốc gia như: Trung Quốc (CN), Nhật Bản (JP), Mỹ (US), Pháp (FR), Úc (AU), Brazil (BR), Canada (CA), Hàn Quốc (KR), Singapore (SG), Mexico (MX), Ba Lan (PO), Đài Loan (TW), Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WO) và tổ chức sở hữu trí tuệ Châu Âu (EP)



Tại Việt Nam cũng có 3 SC nộp đơn đăng ký bảo hộ:

 1. VN10009249B: Chế phẩm Polyme PHSH dùng cho điều chế chất dẻo PHSH và quy trình điều chế chế phẩm này. 

2. VN22152A: đề cập đến chủng vi sinh vật có khả năng sản xuất một số loại acid có chứa nhóm carboxyl dùng làm nguyên liệu sản xuất nhựa PHSH, dược, thực phẩm và mỹ phẩm.

 3. VN27458A: Thành phần và phương pháp chế tạo nhựa PHSH

 Xem thêm các sản phẩm bao bì nhựa của nam phát như túi zipper, túi xốp bóp nổ, túi opp nắp băng keo, túi nilon 



3. Chỉ số phân loại (IPC) trong các sáng chế liên quan đến nhựa phân hủy sinh học

Với hơn 1400 sáng chế liên quan đến nhựa phân hủy sinh học đã nộp đơn đăng ký bảo hộ, khi đưa vào bảng phân loại sáng chế quốc tế IPC, nhận thấy một số chỉ số phân loại xuất hiện nhiều trong các sáng chế thể hiện các hướng nghiên cứu sau: 

 C08L: Hợp phần của các hợp chất cao phân tử. 
 C08K: Sử dụng các chất vô cơ hoặc hữu cơ phân tử thấp như là các hợp phần của sự hóa hợp.
 C08J: Gia công; các phương pháp hóa hợp chung.

 B65D: Thùng chứa để bảo quản hoặc vận chuyển sản phẩm hoặc vật liệu, ví dụ túi, chai, hộp, can, hộp các tông, thùng, bị, bình, xi téc, xà lan, bình kín, các chi tiết bao gói, các cấu kiện.

 B29C: Tạo hình hoặc liên kết các chát dẻo; tạo hình các chất ở trạng thái dẻo nói chung; xử lý tiếp các sản phẩm đã tạo hình

C08G: Các hợp chất cao phân tử thu được theo cách khác với các phản ứng, trong đó chỉ có sự tham gia của các liên kết carbon-carbon không no

B32B: Các sản phẩm có lớp, tức là các sản phẩm cấu tạo từ các lớp có dạng phẳng hoặc hình khối, ví dụ từ các lớp có cấu trúc xốp hoặc tổ ong

CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0933 992 090  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: www.namphatco.vn  -  E: namphatcompany79@gmail.com

Sơ lược về tình hình nghiên cứu polymer phân hủy sinh học

 Ngày nay, chúng ta đang đi theo hai hướng nghiên cứu chế tạo vật liệu bao bì phân hủy sinh học. Một là, sử dụng ngay các vật liệu có khả năng phân hủy sinh học để chế tạo bao bì như polyester, polymer tự nhiên như tinh bột, chitosan, celolose, polymer tổng hợp như Polyvinyl Alcohol, Poly Lactic Acide, Poly Hydro Butyrate nhưng nhược điểm của chúng là vấn đề về kinh tế. Đã có rất nhiều nghiên cứu trong hướng này nhưng sản phẩm nghiên cứu của chúng chỉ để làm những vật liệu kĩ thuật cao như bao bì có tính năng đặc biệt trên cơ sở PLA, chitosan hay xương trên cơ sở chitosan và PLA. Những polymer tự nhiên thì phải xử lý hay polymer nhân tạo thì phải tổng hợp rất khó khăn và hiệu suất thấp, mà giá thành lại cao. Điều này đã hạn chế khả năng sử dụng những bao bì này.

Hai là, vật liệu bao bì vẫn dựa trên nền Polyethylene nhưng sẽ thêm những thành phần khác có khả năng phân hủy hay phụ gia trợ giúp khả năng oxi – quang hóa để giúp Polyethylene có thể phân hủy dưới điều kiện tự nhiên. Trên cơ sở đó, các nhóm nghiên cứu trong và ngoài nước đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu và đã có nhiều kết quả khả quan. Tinh bột là loại polymer phổ biến được chọn để kết hợp với Polyethylene bởi những ưu điểm vượt trội của nó như giá thành rẻ, nguồn dồi dào và đặc biệt là có khả năng phân hủy sinh học vì có nguồn gốc từ thực vật. Nhóm tác giả trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên đã chế tạo thành công vật liệu thân thiện với môi trường trên cơ sở Polyethylene và tinh bột. Các nước trên thế giới cũng đã có những bước tiến mới cho loại vật liệu này. Tuy nhiên, các kết quả khảo sát khả năng phân hủy của hổn hợp Polyethylene và tinh bột chứng minh rằng Polyethylene trong hổn hợp vẫn không có khả năng tự phân hủy mà chỉ có thể dựa vào sự phân hủy của các polymer có khả năng phân hủy, tạo môi trường cho vi sinh tấn công PE. Bên cạnh đó, sử dụng phụ gia trợ oxi hóa cho vào Polyethylene để tăng khả năng phân hủy cũng đã được nghiên cứu từ rất lâu. Các chất oxi hóa được sử dụng có nguồn gốc từ các kim loại chuyển tiếp như TiO2, Coban, Mangan, Sắt và Canxi. Ngoài ra, các nhóm tác giả người Úc đã tiến hành nghiên cứu khả năng phân hủy của Polyethylene bằng cách phối trộn với Montmorillonite có tác dụng oxi hóa và thu được một vài kết quả khá tốt. Các sản phẩm bao bì có sử dụng các chất trợ oxi hóa đã được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới và ứng dụng trong màng nông nghiệp.

1. Hướng mới cho việc phát triển bao bì có khả năng tự phân hủy 

Những kết quả nghiên cứu này đã mở ra một hướng mới trong việc tạo ra màng bao bì có khả năng tự phân hủy (oxo – biodegradation). Tuy nhiên, các phụ gia oxi hóa có nguồn gốc từ kim loại nặng sẽ gây ra ô nhiễm nguồn nước và 14 môi trường sau quá trình phân hủy mặc dù hiệu quả oxi hóa của chúng rất tốt. Trong số các kim loại đó thì Titan là kim loại được sử dụng nhiều nhất trong cuộc sống bởi Titan không độc hại đối với cơ thể con người và có tính chất quang hóa - hấp thụ tia UV rất tốt. TiO2 được sử dụng rộng rãi với vai trò là pigment tạo màu trắng cho bao bì, pigment trong sơn, làm xúc tác quang hóa trong các phản ứng hóa học. Titan được sử dụng chủ yếu dưới dạng Titan Dioxit. Năm 2006, nhóm tác giả người Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu khả năng phân hủy của màng Polyethylene dựa trên khả năng quang hóa của TiO2. Đến năm 2010, nhóm tác giả người Thái Lan cũng đã khảo sát hiệu quả quang hóa của TiO2 trên nền Polyethylene và Polypropylene. Việc khảo sát khả năng quang hóa của TiO2 chỉ được thực hiện dưới ánh sáng của đèn thí nghiệm với bước sóng từ 254 nm đến 400 nm nhưng chưa có tác giả nào thực hiện khảo sát dưới ánh sáng mặt trời. Điều này trở nên cần thiết khi trong thực tế bao bì chỉ được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Khi sử dụng TiO2 thì hiệu quả quang hóa của TiO2 là vấn đề cần quan tâm nhất và các nhóm nghiên cứu đã không ngừng cải thiện tính chất quang hóa của chúng bằng cách biến tính hay kết hợp với các thành phần mới. Việc biến tính TiO2 bằng Ca3(PO4)2 để tăng khả năng tương hợp với nhựa nền Polyethylene được khảo sát hay việc kết hợp TiO2 với các oxit kim loại như La2O3, kết hợp với carbon, kết hợp với ketone cũng được thực hiện trước đó. Việc kết hợp như vậy đã cải thiện đáng kể khả năng quang hóa của TiO2. Trong những phương pháp biến tính trên thì TiO2 kết hợp với các hợp chất chứa nhóm carbonyl cho kết quả khả quan nhất. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện khảo sát hiệu quả quang hóa của hổn hợp TiO2 và carbonyl trên các dung dịch hexan và toluene. Kết quả cho thấy rằng việc kết hợp TiO2 và carbonyl với tỷ lệ 1:3 cho chỉ số carbonyl rất cao (CI = 25) trong dung dịch hexan. Nghiên cứu này đã mở ra một hướng đi mới cho lĩnh vực nghiên cứu bao bì phân hủy dưới tác nhân oxi hóa.



 2. Vật liệu phân hủy sinh học dựa trên hỗn hợp polyethylene/tinh bột 

Một số nghiên vật liệu phân hủy sinh học dựa trên hỗn hợp polyethylene/tinh bột đã công bố từ rất sớm. Năm 1997, H. Dave và cộng sự đã tiến hành kiểm tra mức độ phân hủy của màng giữa polyethylene với 30% tinh bột, kết quả cho thấy sau 48 tuần thì khối lượng mẫu giảm đi 6.3% và 84.5% khối lượng của TPS bị phân hủy khi chôn trong môi trường đất-compost. Quá trình phân hủy sinh của màng đã được tăng tốc bằng cách ủ trong shake-flask kết quả cho thấy khới lượng mẫu bị giảm 11,2% và 68,9% TPS bị phân hủy chỉ sau 6 tuần. Các phân tích FTIR và NMR C13 cho thấy sự mất khối lượng của 15 tinh bột trong quá trình phân hủy đi kèm với thay đổi cấu trúc mạch dài của polyethylene, làm cho các mạch này trở nên ngắn hơn

Năm 2003, Rodriguez-Gonzalez và đồng nghiệp đã nghiên cứu hóa dẻo tinh bột với hàm lượng glycerol được thay đổi từ 29-40% sau đó phối trộn với polyethylene trên máy đùn 1 trục vít. Kết quả cho thấy tỷ lệ PE/TPS (55:45) cho 94% độ dãn dài đứt và 76% modul so với polyethylene. Ở tỷ lệ PE/TPS (71:29) cho 96% độ dãn dài đứt và 100% modul so với polyethylene. Ở t lệ PE/TPS (55:45) các thành phần liên kết với nhau hoàn toàn. Ngoài ra có thể kiểm soát được hình thái của hỗn hơp ở dạng hình cầu, sợi hay liên tục khi thay đổi hàm lượng TPS. Vật liệu này sử dụng nguyên liệu là các nguồn tài nguyên tái tạo và bền vững hơn các polyme tổng hợp. Năm 2010, A. P. Gupta và đồng nghiệp đã tiến hành nghiên cứu phối trộn LDPE với LDPE-g-mA (LDPE ghép với (0,5%) anhydride maleic) với tỉ lệ 1:1. Màng được tạo thành từ hỗn hợp này với tinh bột khoai tây với tỷ lệ khác nhau 0, 2.5, 5.0, 7.5, 10.0, 12.5 và 15% trên thiết bị đùn thổi. Kết quả được nghiên cứu trên màng với hàm lượng tinh bột khoai tây ở 15%. Kết quả phân tich tính chất cơ, nhiệt, khả năng hấp thụ nước cho thấy ở hàm lượng này đã tạo ra màng bao bì có khả năng sử dụng đóng gói. 



Ngoài ra rất nhiều công bố trên thế giới về lĩnh vực này. Tuy nhiên, các kết quả khảo sát khả năng phân hủy của hỗn hợp polyethylene và tinh bột chứng minh rằng polyethylene trong hỗn hợp vẫn không có khả năng tự phân hủy mà chỉ có thể dựa vào sự phân hủy của các polyme có khả năng phân hủy, tạo môi trường cho vi sinh tấn công các mạch PE. Ngoài ra, các nhóm tác giả người Úc đã tiến hành nghiên cứu khả năng phân hủy của polyethylene bằng cách phối trộn với montmorillonite có tác dụng oxi hóa và thu được một vài kết quả khả quan về việc tăng khả năng phân hủy của loại vật liệu này.

CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0933 992 090  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: www.namphatco.vn  -  E: namphatcompany79@gmail.com

Tác hại kinh hoàng của việc sử dụng và đốt bao bì nhựa

 Ngày nay, túi nilon (ni lông) đã trở lên quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng. Với ưu điểm bền, chắc, tiện dụng và giá thành thấp, túi nilon, đặc biệt là các loại túi siêu mỏng được sử dụng phổ biến và hầu như có mặt ở mọi nơi từ của hàng bán rau, dưa cà muối đến các siêu thị và những trung tâm thương mại lớn, ngay cả ở của hàng bán cháo dinh dưỡng dành cho trẻ em cũng là mặt hàng khá quen thuộc

1.Thực trạng sử dụng túi nilon tại việt nam 

Túi nilon xuất hiện cách đây khoảng 150 năm – do nhà hóa học Anh Alexander Parkes phát minh. Sự ra đời của túi nilon đã mang lại nhiều tiện lợi, nhất là trong việc bao gói hàng hóa, song đến thời điểm này túi nilon đang là một vấn nạn môi trường và nhiều quốc gia đang tìm mọi cách để loại bỏ. Người ta tính rằng, vứt bỏ một túi nilon chỉ tốn 1 giây, nhưng nếu không có sự tác động bởi nhiệt độ cao của ánh sáng mặt trời thì phải mất từ 500 – 1.000 năm mới có thể phân hủy được. Ước tính, mỗi năm nhân loại xài khoảng 500 – 1.000 tỉ túi nhựa. Vì thế túi nilon đang bị coi là một trong những “thủ phạm” nguy hiểm gây ô nhiễm môi trường – sự “ô nhiễm trắng”

Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên – Môi trường, trung bình mỗi ngày, một gia đình Việt Nam sử dụng và thải ra ít nhất 1 túi ni lông. Con số đó thống kê trên phạm vi cả nước là khoảng 25 triệu túi/ ngày. Chỉ tính riêng ở Hà Nội, với 7 sức ép của gần 3 triệu dân (đứng thứ 2 cả nước), hàng ngày thủ đô thải ra khoảng trên 1.000 tấn rác, trong đó có khoảng 13 tấn là nhựa và túi ni lông

Năm 2000, trung bình một ngày, Việt Nam xả khoảng 800 tấn rác nhựa ra môi trường. Đến nay, con số đó là 2.500 tấn/ngày và có thể còn hơn. Tính trung bình mỗi gia đình Việt Nam hàng ngày sử dụng không dưới 10 túi nilon các loại. Tuy nhiên, chính sự “tiện dụng” này mà mỗi năm số tiền bị lãng phí lên tới 648 tỉ đồng cho việc sử dụng túi nilon của hơn 800.000 hộ gia đình tại thành phố Hà Nội.

Những số liệu sơ bộ trên cho thấy thực trạng về nhu cầu sử dụng túi ni lông ở nước ta hiện nay là rất lớn. Nó đã trở thành một thứ thói quen không thể thiếu, “ăn sâu” vào hoạt động mua bán của nhiều người. Từ những mặt hàng bình dân nhất như quả cà, con cá, mớ rau,… đến những vật dụng quần áo, giày dép,… đều được bọc gói bằng túi ni lông. Và thông thường sau một lần sử dụng, những chiếc túi chỉ đáng giá có vài xu ấy được người ta thuận tay vứt bữa bãi khắp mọi nơi, gây ô nhiễm môi trường và mất mỹ quan thành phố.  

Tuy nhiên, những ảnh hưởng của nó đến môi trường và sức khoẻ là rất lớn nhưng hầu như chúng ta không ai chú ý đến



Túi nilon chứa nhiều thành phần độc hại với sức khỏe của con người và môi trường.

Túi nilon gây tác hại ngay từ khâu sản xuất bởi vì việc sản xuất túi nilon phải sử dụng nguyên liệu đầu vào là dầu mỏ và khí đốt, và các chất phụ gia chủ yếu được sử dụng là chất hoá dẻo, kim loại nặng, phẩm màu… là những chất cực kỳ nguy hiểm tới sức khoẻ và môi trường sống của con người, do đó trong quá trình sản xuất nó sẽ tạo ra khí CO2 làm tăng hiệu ứng nhà kính, thúc đẩy biến đổi khí hậu toàn cầu.hiểm họa từ việc sử dụng và đốt túi nilon

 Túi nilon góp phần làm ô nhiễm nguồn nước và làm đất bạc màu.

Theo các nhà khoa học, túi nilon được làm từ những chất khó phân huỷ, khi thải ra môi trường phải mất hàng trăm năm đến hàng nghìn năm mới bị phân huỷ hoàn toàn. Sự tồn tại của nó trong môi trường sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đất và nước bởi túi nilon lẫn vào đất sẽ ngăn cản ôxi đi qua đất, gây xói mòn đất, làm cho đất bạc màu, không tơi xốp, kém chất dinh dưỡng, từ đó làm cho cây trồng chậm tăng trưởng

Khi đốt túi nilon sẽ sinh ra những khí cực độc gây nhiều bệnh nghiêm trọng cho con ngừời.

Nghiêm trọng hơn các nhà khoa học còn phát hiện ra rằng từ đất và nước bị ô nhiễm bởi túi nilon sẽ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới sức khoẻ con người. Thực tế nhiều loại túi nilon được làm từ dầu mỏ nguyên chất khi chôn lấp chúng dưới đất sẽ ảnh hưởng tới môi trường đất và nước còn đốt chúng sẽ tạo ra khí thải có chất độc dioxin và Fura gây ngộ độc, ảnh hưởng tuyến nội tiết, gây ung thư, giảm khả năng miễn dịch, rối loạn chức năng tiêu hoá và các dị tật bẩm sinh ở trẻ nhỏ,…và đặc biệt trong một số loại túi nilon có lẫn lưu huỳnh, dầu hoả nguyên chất khi đốt cháy gặp hơi nước sẽ tạo thành axít Sunfuric dưới dạng các cơn mưa axit rất có hại cho phổi.



Rác thải từ túi nilon tạo thành nhiều ổ dịch bệnh

Túi nilon kẹt sâu trong cống rãnh, kênh rạch còn làm tắc nghẽn gây ứ đọng nước thải và ngập úng. Các điểm ứ đọng nước thải sẽ là nơi sản sinh ra nhiều vi khuẩn gây bệnh, bên cạnh đó túi nilon còn làm mất mỹ quan tới cảnh quan.

Túi nilon dùng một lần gây lãng phí kinh tế cho toàn thế giới 

Trong trào lưu chung của thế giới các túi nilon chủ yếu sử dụng một lần rồi bị thải ra môi trường ngày một gia tăng. Việc này không chỉ gây lãng phí về kinh tế mà còn là hiểm họa khôn lường cho nhân loại.

Dùng túi nilon đựng đồ ăn nóng sẽ sinh ra nhiều chất độc hại cho cơ thể

Theo phân tích của ông Nguyễn Khoa, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ hóa học: thì túi ni lông được làm từ nhựa PTE không độc nhưng các chất phụ gia thêm vào để làm túi ni lông mềm, dẻo, dai lại vô cùng độc hại. Nếu đựng đồ nóng bắt đầu từ 70-80 độ C thì những chất phụ sẽ có phản ứng phụ và khó mà biết được nó độc hại đến đâu. Hàng ngày, chúng ta cũng ít biết đến thông tin: những túi ni lông nhuộm màu xanh đỏ đầy rẫy ngoài chợ nếu đựng thực phẩm đã chế biến sẽ gây độc cho thực phẩm do chứa các kim loại như chì, cadimi (những chất gây tác hại cho bộ não và là nguyên nhân chính gây ung thư).


CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT

Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0933 992 090  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: www.namphatco.vn  -  E: namphatcompany79@gmail.com

Thực trạng sử dụng bao bì nhựa, quản lý chất thải bao bì gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam

Rác thải bao bì nhựa ngày càng là một vấn đề quan tâm của xã hội. Cùng chúng tôi tìm hiểu về  Thực trạng sử dụng bao bì nhựa, quản lý chất thải bao bì gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam

1. Thực trạng sử dụng bao bì nhựa ở việt nam 

 Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa – đô thị hóa (CNH – ĐTH) và cùng với nó là sự gia tăng chất thải sinh hoạt, trong đó có chất thải túi bao bì từ nhựa. Các bao bì sản xuất từ polyme có nguồn gốc từ dầu mỏ (PE, PP…) hiện đang sử dụng ở nước ta và nhiều nước trên thế giới thuộc loại khó và lâu phân hủy. Những đặc điểm ưu việt trong sản xuất và tiêu dùng bao bì nhựa đã làm lu mờ các tác hại đối với môi trường khi thải bỏ. Đó cũng là lý do chính yếu giải thích tại sao bao bì nhựa lại được dùng rất phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới bất chấp những cảnh báo về tác hại to lớn và nhiều mặt tới môi trường, sức khỏe và trở thành vấn nạn trong quản lý môi trường ở hầu hết các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Theo các nhà khoa học, bao bì nhựa được làm từ những chất khó phân hủy, khi thải ra môi trường phải mất từ hàng chục năm cho tới một vài thế kỷ mới được phân hủy hoàn toàn trong tự nhiên. Sự tồn tại của nó trong môi trường sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đất và nước bởi các sản phẩm này lẫn vào đất sẽ ngăn cản ôxy đi qua đất, gây xói mòn đất, làm cho đất không giữ được nước, dinh dưỡng, từ đó làm cho cây trồng chậm tăng trưởng. Nghiêm trọng hơn, môi trường đất và nước bị ô nhiễm bởi sản phẩm bao bì này sẽ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới sức khỏe con người

Trong thực tế, nhiều loại túi được làm từ polyme nguồn gốc dầu mỏ khi ngấm vào nguồn nước sẽ xâm nhập vào cơ thể người gây rối loạn chức năng và dị tật bẩm sinh ở trẻ nhỏ. Các bao bì này làm tắc nghẽn cống, rãnh, kênh, rạch, gây ứ đọng nước thải và ngập úng dẫn đến sản sinh ra nhiều vi khuẩn gây bệnh. Ngoài ra, nó còn gây mất mỹ quan và cảnh quan. Ô nhiễm môi trường do chất thải bao bì từ nhựa hiện được các nhà môi trường gọi là “ô nhiễm trắng”.



2. Việc sử dụng bao bì nhựa ở nước ta 

Ở nước ta, việc sử dụng tràn lan các loại bao bì này trong các hoạt động sinh hoạt xã hội, chủ yếu và đặc biệt là loại túi siêu mỏng, thể hiện sự dễ dãi của cả người cung cấp cũng như người sử dụng; người bán sẵn sàng đưa thêm một 5 hoặc vài chiếc túi cho người mua khi được yêu cầu; người mua ít khi mang theo vật đựng (túi xách, làn…) vì biết chắc chắn rằng khi mua hàng hóa sẽ có bao bì kèm theo để xách về.

Hiện chưa có số liệu thống kê chính thức về số lượng sản phẩm bao bì từ nhựa được sử dụng ở Việt Nam nhưng đã có một số khảo sát, ước tính về số lượng này. Tuy có sự khác nhau về con số nhưng ấn tượng chung là rất lớn và chưa được quản lý ở hầu hết tất cả các khâu của vòng đời của sản phẩm: từ sản xuất, lưu thông phân phối, sử dụng cho đến thải bỏ, thu gom, xử lý

Theo một khảo sát của cơ quan môi trường, trung bình một người Việt Nam trong 1 năm sử dụng ít nhất 30 kg các sản phẩm có nguồn gốc từ nhựa. Từ 2005 đến nay, con số này là 35 kg/người/năm. Năm 2000, trung bình một ngày, Việt Nam xả khoảng 800 tấn rác nhựa ra môi trường. Đến nay, con số đó là 2.500 tấn /ngày và có thể còn hơn



3. Quản lý việc sủ dụng bao bì nhựa ở nước ta 

Với số lượng và khối lượng sản phẩm được sử dụng và thải bỏ hàng ngày lớn như vậy nhưng việc quản lý chúng trong nhiều năm qua và cho đến nay ở nước ta vẫn đang là vấn đề còn chưa tìm được lời giải hợp lý. Đã có những đề xuất: cấm sử dụng; áp dụng các công cụ kinh tế (thuế, phí…); công cụ giáo dục, nâng cao nhận thức nhưng cũng từ bài học kinh nghiệm sử dụng các biện pháp đó ở các nước cho thấy, hiệu quả của các biện pháp này không cao mà nguyên nhân chính yếu là sự tiện dụng cao và giá cả thấp của túi nilon. Chính điều này đã làm cho sản phẩm xuất phát tử polymer khó phân hủy hiện diện ở khắp nơi trong đời sống xã hội. Sự tiện dụng cao làm cho bao bì trở thành vật dụng thiết yếu trong sinh hoạt hàng ngày của mỗi người dân. Giá thành, giá cả thấp không chỉ thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng mà còn làm cho việc hạn chế, giảm thiểu, thu gom, sử dụng lại và tái chế sản phẩm này ít mang ý nghĩa về kinh tế, không có động cơ thúc đẩy

Các giải pháp công nghệ được đề xuất, kể cả các sản phẩm thay thế sử dụng sản phẩm bao bì khó phân hủy bằng loại túi thân thiện với môi trường cùng các cuộc vận động “nói không với sản phẩm nhựa không phân hủy” do các cơ quan quản lý môi trường, các tổ chức xã hội, thậm chí cả các doanh nghiệp nhưng vẫn không làm cho sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm bao bì không phân hủy giảm đi mà trái lại, chúng vẫn gia tăng, môi trường hàng ngày vẫn phải nhận thêm chất thải. Một thực trạng rất đáng lưu ý là phần lớn người dân, kể cả nhiều nhà sản xuất và phân phối đều đồng tình, ủng hộ việc hạn chế sử dụng bao bì khó phân hủy trong đời sống xã hội.

Như vậy, vấn đề chất thải bao bì không phân hủy ở nước ta hiện đang được quan tâm của các bên liên quan với nhận thức khá tốt và khá rõ trong xã hội về tác hại và tính cấp thiết phải quản lý và xử lý chúng.

CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0933 992 090  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: www.namphatco.vn  -  E: namphatcompany79@gmail.com

Yếu tố ảnh hưởng tới quyết định mua bao bì thân thiện với môi trường

 Khi tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định mua sản phẩm không thể không đề cập tới mô hình hành vi mua của người tiêu dùng của Philip Kotler. Mô hình này mô tả mối quan hệ giữa ba yếu tố (Kotler, 2006): các kích thích, “hộp đen ý thức” và những phản ứng đáp lại các kích thích của người tiêu dùng. 

Các kích thích: được hiểu là các tác nhân bên ngoài khách hàng, người tiêu dùng có thể gây những ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng. Chúng được chia làm hai nhóm chính

Nhóm 1: Các tác nhân kích thích của marketing bao gồm các sản phẩm, giá bán, địa điểm, cách thức phân phối và các hoạt động xúc tiến. Các tác nhân này nằm trong khả năng kiểm soát của các doanh nghiệp

Nhóm 2: Các tác nhân kích thích không thuộc quyền kiểm soát tuyệt đối của các doanh nghiệp, bao gồm: môi trường kinh tế, cạnh tranh, chính trị, văn hóa, xã hội,...

“Hộp đen ý thức” của khách hàng là những gì diễn ra trong tâm thức của khách hàng sau khi tiếp xúc với các yếu tố kích thích hay nói cách khác, hộp đen ý thức là cách gọi bộ não của con người và cơ chế hoạt động của nó trong việc tiếp nhận, xử lý các kích thích và đề xuất các giải pháp đáp ứng trở lại các kích thích. Theo Philip Kotler, “Hộp đen” ý thức được chia làm hai phần:

Phần thứ nhất, đặc điểm của người tiêu dùng. Đây là những tiền đề để người tiêu dùng tiếp nhận các kích thích và phản ứng lại các yếu tố kích thích. 

Phần thứ hai, quá trình quyết định mua của người tiêu dùng, là quá trình thực hiện các hoạt động liên quan đến sự xuất hiện của nhu cầu, tìm kiếm thông tin, đánh giá mua, quyết định mua và những cảm nhận họ có được khi tiêu dùng mặt hàng. Người tiêu dùng mua hay không mua sản phẩm phụ thuộc vào kết quả của các hoạt động này như thế nào

Mô hình “hộp đen ý thức” của người tiêu dùng rất quan trọng. Hộp đen ý thức xuất hiện trong rất nhiều các lý thuyết, nghiên cứu về quyết định mua hàng của khách hàng. Hộp đen là những gì diễn ra trong tâm trí người tiêu dùng, không thể nhìn thấy, không thể biết được khách hàng đang suy nghĩ gì. Chính vì vậy, “hộp đen ý thức” của khách hàng Hình 1.2: Mô hình hành vi người tiêu dùng Nguồn: Kotler, P. và Keller, K. (2006) 26 thể hiện được mối quan hệ giữa tác nhân bên ngoài đến các phản ứng đáp lại của người tiêu dùng, hướng tâm trí khách hàng đến những mục đích phù hợp của doanh nghiệp.

Mô hình đơn giản cho quá trình quyết định mua của khách hàng và các yếu tố tác động tới quá trình này của David L.Loudon và Albert J. Della Bitta (1993) đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua của KHCN được chia ra bốn nhóm yếu tố chính thuộc về: Văn hóa, Xã hội, Cá nhân và Tâm lý.

Trong nghiên cứu của mình, David L.Loudon cũng đã chỉ rõ cơ sở 4 nhóm yếu tố tác động đến quyết định mua hàng của KHCN. Cụ thể như sau:

Các yếu tố văn hóa:

Nền văn hóa: Văn hóa là hệ thống những giá trị, niềm tin, truyền thống và chuẩn mực được hình thành và gắn liền với một xã hội, một chế độ, một tôn giáo hay một dân tộc nhất định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những người có trình độ văn hóa cao, thái độ của họ đối với các sản phẩm rất khác biệt với những người có trình độ văn hóa thấp.

 Nhánh văn hóa: Mỗi nền văn hóa có những nhánh văn hóa nhỏ hơn tạo nên những đặc điểm đặc thù hơn và mức độ hòa nhập với xã hội cho những thành viên của 27 nó. Các nhánh văn hóa tạo nên những phân khúc thị trường quan trọng và những người làm tiếp thị thường thiết kế các sản phẩm và chương trình tiếp thị theo các nhu cầu của chúng.

Các yếu tố xã hội 

Địa vị xã hội: Hầu như tất cả các xã hội loài người đều thể hiện rõ sự phân tầng xã hội. Các tầng lớp xã hội là những bộ phận tương đối đồng nhất và bền vững trong xã hội, được xếp theo thứ bậc và gồm những thành viên có chung những giá trị, nỗi quan tâm và hành vi. 

 Nhóm tham khảo là những nhóm có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến quyết định của khách hàng. Có những nhóm là nhóm sơ cấp, như gia đình, bạn bè, hàng xóm láng giềng và đồng nghiệp mà người đó có quan hệ giao tiếp thường xuyên. Ngoài ra con người còn thuộc về một số các tập thể thứ cấp, thường mang tính chất hình thức hơn và sự tác động qua lại với chúng không mang tính chất thường xuyên như các nhóm nghề nghiệp, công đoàn. 

Cá nhân cũng chịu ảnh hưởng của cả những nhóm mà họ không phải là thành viên.Các thành viên trong gia đình là nhóm tham khảo quan trọng có ảnh hưởng lớn nhất, có hai gia đình trong đời sống người mua. Gia đình định hướng gồm bố mẹ của người đó. Do từ bố mẹ mà một người có được một định hướng đối với tôn giáo, chính trị, kinh tế và một ý thức về tham vọng cá nhân, lòng tự trọng và tình yêu. Gia đình thứ hai ảnh hưởng trực tiếp hơn đến hành vi mua sắm hàng ngày là gia đình riêng của người đó, tức là vợ chồng và con cái. Vai trò và ảnh hưởng của người chồng, vợ thay đổi tùy thuộc vào loại sản phẩm, vai trò và địa vị họ nắm giữ trong gia đình, trình độ hiểu biết và kinh nghiệm về các lĩnh vực hàng hóa khác nhau. 



Các yếu tố cá nhân

Những quyết định của người mua cũng chịu ảnh hưởng của những đặc điểm cá nhân, nổi bật nhất là tuổi tác và giai đoạn chu kỳ sống của người mua, nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế, lối sống, nhân cách và tự ý niệm của người đó. 

 Hành vi mua sắm của Người tiêu dùng cũng chịu ảnh hưởng bởi tuổi tác. Mong muốn và nhu cầu ở những lứa tuổi khác nhau cũng sẽ khác nhau. Tính chất tiêu dùng, nhu cầu 28 tiêu dùng, khả năng tài chính, sở thích cũng sẽ thay đổi tùy thuộc vào từng giai đoạn cuộc đời của mỗi người. Do đó có những hành vi và sự lựa chọn khác nhau trong việc mua hàng

Nghề nghiệp cũng là yếu tố ảnh hưởng tới cách thúc tiêu dùng của mỗi cá nhân. Khách hàng với nghề nghiệp khác nhau sẽ tiêu dùng khác nhau. Sự lựa chọn quần áo, giày dép, đồ ăn, thức uống, các hình thức giải trí, phong cách của một người làm công sẽ khác với người làm chủ, giám đốc điều hành công ty.

Việc lựa chọn sản phẩm chịu tác động rất lớn từ hoàn cảnh kinh tế của nguời đó. Hoàn cảnh kinh tế gồm thu nhập có thể chi tiêu đuợc của họ (mức thu nhập, mức ổn định và cách sắp xếp thời gian), tiền tiết kiệm và tài sản (bao gồm cả tỷ lệ phần trăm tài sản luu động), nợ, khả năng vay muợn, thái độ đối với việc chi tiêu và tiết kiệm. Do đó, hành vi mua sắm của nguời tiêu dùng cũng chịu ảnh huởng từ thu nhập của họ.

 Lối sống là những hình thức tồn tại bền vững của con người trong thế giới, được thể hiện ra trong hoạt động, sự quan tâm và niềm tin của nó. Sự lựa chọn hàng hóa của người tiêu dùng thể hiện lối sống của họ. 

Mỗi người đều có một nhân cách khác biệt có ảnh hưởng đến hành vi của nhóm đó. Ở đây nhân cách là những đặc điểm tâm lý khác biệt của một người dẫn đến những phản ứng tương đối nhất quán và lâu bền với môi trường của mình. Nhân cách thường được mô tả bằng những nét như tự tin có uy lực, tính độc lập, lòng tôn trọng, tính chan hòa, tính kín đáo và tính dễ thích nghi. Hiểu biết về nhân cách có ích khi phân tích hành vi của người tiêu dùng nếu tồn tại một mối liên hệ nhất định giữa kiểu nhân cách và việc lựa chọn hàng hóa hay nhãn hiệu  



Các yếu tố tâm lý

Hành vi lựa chọn mua sắm của một người còn chịu ảnh hưởng của bốn yếu tố tâm lý là động cơ, nhận thức, hiểu biết, niềm tin và thái độ.

Động cơ là nhu cầu đã trở thành khẩn thiết đến mức độ buộc con người phải tìm cách và phương thức thỏa mãn nó. Việc thỏa mãn nhu cầu sẽ làm giảm bớt cảm giác căng thẳng. Tại bất kỳ một thời điểm nhất định nào con người cũng có nhiều nhu cầu. Một người có động cơ luôn sẵn sàng hành động 

Vấn đề người có động cơ đó sẽ hành động như thế nào trong thực tế còn chịu ảnh hưởng từ sự nhận thức của người đó về tình huống lúc đó. Nhận thức được định nghĩa là “một quá trình thông qua đó cá thể tuyển chọn, tổ chức và giải thích thông tin tạo ra một bức tranh có ý nghĩa về thế giới xung quanh”. Nhận thức không chỉ phụ thuộc vào những tác nhân vật lý, mà còn phụ thuộc vào cả mối quan hệ của các tác nhân đó với môi trường xung quanh và những điều kiện bên trong cá thể đó



Khi người ta hành động họ cùng đồng thời lĩnh hội được tri thức, tri thức mô tả những thay đổi trong hành vi của cá thể bắt nguồn từ kinh nghiệm, hiểu biết. Hầu hết hành vi của con người đều được lĩnh hội. Các nhà lý luận về tri thức cho rằng tri thức của một người được tạo ra thông qua sự tác động qua lại của những thôi thúc, tác nhân kích thích, những tấm gương, những phản ứng đáp lại và sự củng cố.

Thông qua hoạt động và tri thức, người ta có được niềm tin và thái độ. Những yếu tố này lại có ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của con người. Niềm tin là sự nhận định trong thâm tâm về một cái gì đó. Những niềm tin này có thể được xây dựng trên cơ sở những tri thức thực tế, những ý kiến và lòng tin. Căn cứ vào những niềm tin này con người hành động.

Thái độ là sự đánh giá tốt hay xấu của cá thể, được hình thành trên cơ sở những tri thức hiện có và bền vững về một khách thể hay ý tưởng nào đó, những cảm giác do chúng gây ra và phương hướng hành động có thể có. Thái độ làm cho con người sẵn sàng thích hoặc không thích một đối tượng nào đó, cảm thấy gần gũi nó hay xa cách nó. Thái độ cho phép cá thể xử sự tương đối ổn định đối với những vật giống nhau 

CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0933 992 090  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: www.namphatco.vn  -  E: namphatcompany79@gmail.com

Bao bì thân thiên môi trường khác với bao bì thông thường như thế nào

 Đặc điểm chung lớn nhất của sản phẩm sử dụng bao bì thông thường và sản phẩm sử dụng bao bì TTVMT là đều dùng bao bì để bảo quản sản phẩm, giữ sản phẩm luôn ở điều kiện tốt nhất.

Bên cạnh đó, có rất nhiều điểm khác biệt giữa sản phẩm có bao bì thông thường và sản phẩm có bao bì TTVMT. Xét theo khía cạnh Marketing, tác giả sẽ tiến hành so sánh 2 loại sản phẩm này theo các tiêu chí trong mô hình Marketing 4P, được biết đến như là mô hình marketing Mix của E J McCarthy (1960).

4P gồm: Sản phẩm (Product), Kênh phân phối (Place), Giá (Price), Xúc tiến bán hàng (Promotion). Việc xác định 4P của một loại sản phẩm như sản phẩm có bao bì thân thiện với môi trường giúp đội ngũ Marketing có thể tiếp cận đúng phân khúc thị trường, khách hàng mục tiêu, thúc đẩy quyết định mua sản phẩm của khách hàng nhanh hơn, hiệu quả hơn. Về sản phẩm, theo suy nghĩ truyền thống, một sản phẩm tốt sẽ tự tiêu thụ được được trên thị trường. Tuy nhiên, trong môi trường cạnh tranh trên thế giới cũng như ở Việt Nam ngày nay, khách hàng có thể trả lại hàng hóa nếu họ nghĩ là sản phẩm không đạt chất lượng. Do đó cần phải xác định các đặc tính của sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Về kênh phân phối, cần quan tâm đến tính sẵn có của thị trường về đưa sản phẩm đến đúng nơi, đúng lúc và đúng số lượng. Về giá của sản phẩm, cần quan tâm đến mức giá mà khách hàng mục tiêu sẵn sàng trả cho sản phẩm. Nhìn chung, khách hàng thường khá nhạy cảm về giá. Ở Việt Nam, một số quan niệm về giá cũng có mặt không hợp lý: chẳng hạn mọi người thường quan điểm là cái gì đắt thì phải tốt. Về xúc tiến bán hàng, đây là cách thông báo cho những khách hàng mục tiêu về doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp thông qua việc quảng cáo, bán hàng, khuyến mãi,…  



Các tiêu chí so sánh bao bì thường và bao bì thân thiện môi trường.

1. Nguyên liệu sản xuất bao bì thân thiện môi trường 

Bao bì được làm từ các vật liệu xanh, TTVMT như gỗ, mía, tre, giấy,… không sử dụng phẩm màu, không chứa chất độc hại ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, với một số sản phẩm đặc thù, bao bì TTVMT không đáp ứng được chức năng chính của bao bì là bảo quản và thuận tiện cho vận chuyển. Màu sắc của bao bì có thể gây nhàm chán làm sản phẩm trở nên kém hấp dẫn.

2. Nguyên liệu sản xuất bao bì thường 

Bao bì sử dụng chủ yếu được làm từ nilon, nhựa,… có phong phú, màu sắc bắt mắt do dùng phẩm màu, có thể nhiễm vào sản phẩm bên trong, làm giảm chất lượng sản phẩm, từ đó có thể gây hại cho sức khỏe NTD.

3. Độ phổ biến của bao bì thân thiện môi trường 

Khách hàng cá nhân ở Việt Nam có thể tìm mua sản phẩm trực tiếp, chủ yếu ở các siêu thị, tập trung ở khu vực thành phố

>> Tìm hiểu thêm sản phẩm túi pp giá rẻ tại link sau: https://namphatco.vn/vi/tui-pp

4. Độ phổ biến của bao bì thường 

Khách hàng có thể mua ở bất kì khu vực nào, sản phẩm phổ biến trên toàn quốc, xuất hiện ở cả hình thức mua trực tiếp và gián tiếp như mua online

5. Về giá của bao bì thân thiện môi trường 

Giá của các sản phẩm có bao bì thân thiện với môi trường còn khá cao. Khách hàng nhạy cảm với giá của sản phẩm này. Giảm thiểu giá của bao bì thân thiện với môi trường 

6. Về giá của bao bì thường 

Giá của sản phẩm có bao bì thông thường khá rẻ, phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng sản phẩm bên trong, giá của bao bì



ƯU ĐIỂM CỦA BAO BÌ THƯỜNG VÀ BAO BÌ THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG 

1. Bao bì thân thiện môi trường 

Bao bì có thể tái sử dụng, tái chế, dễ dàng phân hủy, giảm thiểu tác hại đến sức khỏe NTD.

2. Bao bì thường 

Sản phẩm có bao bì phong phú, màu sắc bắt mắt, phổ biến trên toàn quốc, tiện lợi. Sản phẩm có bao bì thông thường khá thuận tiện trong khâu vận chuyển, bảo quản.Ví dụ như những sản phẩm sử dụng bao bì nilon được hút chân không để vận chuyển, lưu kho dễ dàng hơn.

NHƯỢC ĐIỂM CỦA BAO BÌ THƯỜNG VÀ BAO BÌ THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG 

1. Nhược điểm của bao bì thân thiện với môi trường 

Giá của các sản phẩm có bao bì TTVMT còn khá cao. Màu sắc của bao bì có thể gây Khi thải loại sản phẩm có bao bì thông thường ra môi trường cần tốn nhiều năng lượng để xử lý 21 nhàm chán làm sản phẩm trở nên kém hấp dẫn. Kênh phân phối còn khá hạn chế. Phân khúc khách hàng tập trung vào những người quan tâm tới môi trường. Túi giấy nặng hơn túi nilông trong khâu vận chuyển. Túi giấy phải được tái sử dụng tới 43 lần thì mới có thể thân thiện với môi trường hơn túi nilông.

2. Nhược điểm của bao bì thường

Khi thải loại sản phẩm có bao bì thông thường ra môi trường cần tốn nhiều năng lượng để xử lý và tạo ra nhiều khí độc khi đốt như metan, cacbonic,…Khi tiêu dùng thân thiện môi trường ngày càng được quan tâm thì sản phẩm có bao bì thông thường sẽ khó có khả năng xúc tiến bán hàng và tạo ấn tượng tốt với khách hàng.

CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0933 992 090  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: www.namphatco.vn  -  E: namphatcompany79@gmail.com

Sản phẩm có bao bì nhựa thân thiện với môi trường

 Định nghĩa về sản phẩm có bao bì TTVMT mà tác giả đưa ra là những sản phẩm sản xuất ra được đóng gói trong các bao bì TTVMT mà có thể tái sử dụng, tái chế hoặc phân hủy mà không làm hại đến môi trường và sức khỏe của con người trong suốt vòng đời của sản phẩm.

Các yêu cầu sản phẩm có bao bì nhựa thân thiện với môi trường 

a) Reduce – bao bì Giảm thiểu tác động tới môi trường 

Theo nghiên cứu của Guirong Zhang và Zongjian Zhao (2012), một sản phẩm có bao bì TTVMT là 1 sản phẩm mà bao bì của nó bao gồm đầy đủ các đặc điểm theo nguyên tắc cụ thể 4R1D (Reduce – Reuse – Reclaim – Recycle – Degradable). Cụ thể: a) Reduce – Giảm thiểu Sử dụng bao bì TTVMT làm giảm thiểu lượng rác thải ra môi trường. Những bao bì TTVMT được thiết kế sao cho mỏng, nhẹ, TTVMT và thậm chí có khả năng tái sử dụng nhiều lần. Ở các nước châu Âu và châu Mỹ, giảm thiểu bao bì được cho là 1 trong những biện pháp đóng gói ưu tiên số một. Các công ty đang ngày càng cố gắng dành ít chi phí và nguyên liệu cho chế tạo bao bì sản phẩm. Thêm vào đó các công ty này cũng lên kế hoạch để thu gom các bao bì của những sẩn phẩm cũ và tái sử dụng nó. Việc này giúp tiết kiệm vật liệu thô để sản xuất bao bì, làm giảm lượng nhiên liệu và tài nguyên bị tiêu tốn cho sản xuất chúng.

>> Tìm hiểu thêm sản phẩm túi pp tại đồng nai tại đây 

b) Reuse – bao bì có thể Tái sử dụng

Sử dụng bao bì TTVMT làm giảm thiểu lượng rác thải ra môi trường. Những bao bì TTVMT được thiết kế sao cho mỏng, nhẹ, TTVMT và thậm chí có khả năng tái sử dụng nhiều lần. Ở các nước châu Âu và châu Mỹ, giảm thiểu bao bì được cho là 1 trong những biện pháp đóng gói ưu tiên số một. Các công ty đang ngày càng cố gắng dành ít chi phí và nguyên liệu cho chế tạo bao bì sản phẩm. Thêm vào đó các công ty này cũng lên kế hoạch để thu gom các bao bì của những sẩn phẩm cũ và tái sử dụng nó. Việc này giúp tiết kiệm vật liệu thô để sản xuất bao bì, làm giảm lượng nhiên liệu và tài nguyên bị tiêu tốn cho sản xuất chúng



b) Reuse –Bao bì dễ dàng  Tái sử dụng

Các bao bì TTVMT có đặc điểm là có thể được tái sử dụng nhiều lần. Những bao bì cũ, sau khi được qua một quá trình xử lý đơn giản có thể tái sử dụng mà vẫn giữ nguyên vẹn các đặc tính ban đầu. Việc có thể tái sử dụng các bao bì này làm giảm đáng kể khối lượng chất thải ra môi trường mỗi ngày.

c) Reclaim – Bao bì dễ dàng Cải tạo

Một số bao bì TTVMT được dùng cho mục đích khác cạnh việc sử dụng như bao bì của sản phẩm. Bao bì TTVMT đã qua sử dụng có thể được đốt nhằm tạo ra nguồn năng lượng mới mà không tạo ra ô nhiễm thứ cấp. Bên cạnh đó, thông qua việc tái chế chất thải bao bì, sản xuất các sản phẩm tái tạo (như sử dụng đốt nhiệt, ủ phân và các biện pháp khác) giúp cải thiện điều kiện đất đai và đạt được mục đích tái sử dụng

d) Recycle – Bao bì dễ dàng Tái chế

Bao bì TTVMT sử dụng nguyên liệu thô, chi phí thấp, ô nhiễm thấp làm nguyên liệu đóng gói, đặc biệt là được lựa chọn làm bằng những vật liêu dễ tái chế, không chỉ giúp giảm ô nhiễm môi trường mà còn tiết kiệm nguyên liệu thô, và thuận tiện để tái chế tài nguyên, ví dụ như sản xuất bảng tái chế và nhựa tái chế. e) Degradable – Phân hủy dễ dàng Bao bì TTVMT được làm từ chất liệu dễ phân hủy, chất thải bao bì cuối cùng không thể tái sử dụng, và không tạo thành chất thải vĩnh viễn. Ví dụ, chọn vật liệu đóng gói có thể phân hủy sinh học bằng giấy đang được các công ty chú trọng.

Chú ý  viết tắt TTVMT là Thân thiện với môi trường 

CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0933 992 090  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: www.namphatco.vn  -  E: namphatcompany79@gmail.com

Lý thuyết về tiêu dùng thân thiện với môi trường

 

Tiêu dùng TTVMT hay cũng còn được biết tới với tên gọi là tiêu dùng xanh lần đầu tiên được nhắc tới vào những năm 1970 (Peattie,1992) và cho đến nay vẫn có nhiều cách định nghĩa về tiêu dùng TTVMT. Trong nghiên cứu về chủ nghĩa tiêu dùng TTVMT năm 2011, Mansvelt và Robbins đưa ra định nghĩa khá đầy đủ về thái độ mua TTVMT là việc ưu tiên các hành vi mua chế phẩm sinh học, tái chế và tái sử dụng sản phẩm, hạn chế dùng thừa và sử dụng các phương tiện giao thông TTVMT.

Ngoài ra, các chỉ số khoa học về sử dụng năng lượng hay mức độ thải khi CO2 để tạo ra sản phẩm cũng liên quan đến tiêu dùng TTVMT (Alfredsson, 2004). Đơn giản hơn, mua sản phẩm TTVMT cũng được gọi là tiêu dùng TTVMT. Để nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định mua sản phẩm có bao bì TTVMT, tác giả sẽ làm rõ các khái niệm sau: Thái độ TTVMT, sản phẩm TTVMT, bao bì TTVMT, sản phẩm có bao bì TTVMT và khách hàng cá nhân TTVMT

1. Thái độ thân thiện với môi trường 

Có nhiều cách để định nghĩa về thái độ của con người với các sự vật, sự việc. Một trong những định nghĩa về thái độ được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu về tiêu dùng là của Campbell. Trong nghiên cứu của mình năm 1963, ông đã định nghĩa thái độ là những kinh nghiệm, kiến thức trong quá khứ làm cơ sở để thực hiện các hành vi trong tương lai. Các đánh giá chủ quan của cá nhân với một vật thể, ý tưởng, hành vi dựa trên những tiêu chí: ủng hộ hay không ủng hộ, tốt hay xấu, thích hay không thích … cũng được hiểu là thái độ (Ajzen và Fishbein, 1975). Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ sử dụng định nghĩa về thái độ của Ajzen và Fishbein để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định mua hàng. Chủ nghĩa môi trường ở phương Tây xuất hiện vào cuối những năm 1960 đến đầu những năm 1970, đã dấy lên những nghi ngờ giữa tác động của tiêu dùng và sản xuất đến với môi trường Cohen, M.J., and J. Murphy, (2001). Hiện nay, thái độ mua TTVMT mà cụ thể là việc mua và sử dụng các sản phẩm có bao bì TTVMT được coi là yếu tố cải cách môi trường hiệu quả ở nhiều xã hội phương Tây như EU, Mỹ. Harrison Newhol & Shaw trong nghiên cứu của mình năm 2005 thì cho rằng thái độ mua TTVMT không những là việc ưu tiên tiêu dùng ít đi mà còn là tiêu dùng hiệu quả hơn, thể hiện trách nhiệm đối với việc bảo vệ môi trường thông qua việc lựa chọn các sản phẩm thân thiện môi trường, có cách tiêu dùng và xử lý rác thải hợp lý. Andrew Gilg, Stewart Barr, Nicholas Ford (2005) chỉ ra hành vi TTVMT là sự thể hiện trách nhiệm đối với môi trường và xã hội


2. Sản phẩm thân thiện với môi trường

Sản phẩm xanh (sản phẩm sinh thái hay sản phẩm TTVMT) được nhiều nhà nghiên cứu xây dựng định nghĩa, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất. Sản phẩm xanh là sản phẩm cung cấp lợi ích môi trường, Shamdasani và cộng 16 sự (1993) định nghĩa sản phẩm TTVMT là sản phẩm không gây ô nhiễm cho trái đất hoặc tổn hại tài nguyên thiên nhiên và có thể tái chế, bảo tồn. Elkington và Makower (1988) và Wasik (1996) cho rằng một sản phẩm có chất liệu hoặc bao bì ít tác động tới môi trường cũng có thể được xem là một sản phẩm xanh.

CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0933 992 090  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: www.namphatco.vn  -  E: namphatcompany79@gmail.com 

Thực trạng của ngành sản xuất bao bì nhựa

 Cùng chúng tôi phân tích ảnh hưởng môi trường của sản xuất bao bì  nhựa qua bài viết sau 

1. Thực trạng ngành bao bì nhựa 

Ngành công nghiệp nhựa có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Việt Nam. Ngành nhựa có sự đóng góp cho hầu hết các ngành kinh tế. Việc gia tăng tính bền vững của ngành công nghiệp này được đánh giá là có thể mang lại nhiều cơ hội phát triển, tăng khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất và tạo nhiều cơ hội việc làm Năm 2017, ngành nhựa đạt 15 tỷ USD chiếm 6,7% GDP Việt nam, có tốc độ tăng trưởng sản lượng mạnh đạt 11,62% trong giai đoạn 2012- 2017 [1]. Nhu cầu tiêu dùng nhựa của Việt Nam cũng gia tăng từ 33kg/người năm 2010 lên 41 kg/người năm 2015 [2]. Cơ cấu giá trị sản phẩm của ngành nhựa Việt Nam được chia thành 4 phân khúc chính, bao gồm: nhựa bao bì (41%); nhựa xây dựng (24%); nhựa dân dụng (20%); nhựa kĩ thuật (15%). Riêng mảng nhựa bao bì đạt 5,2 tỷ USD vào năm 2017 và tăng trưởng khoảng 11% so với 2016 [1]. Đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra hoạt động sản xuất và tiêu dùng nhựa đã và đang tạo ra nhiều vấn đề về môi trường [3]. Hoạt động tái chế nhựa ở Việt Nam chủ yếu diễn ra ở các làng nghề với quy mô nhỏ và ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường [4]. Hoạt động sản xuất nhựa ở Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhựa nhập về từ nước ngoài (nguyên sinh và tái chế).

Những năm gần đây việc ứng dụng bảng cân đối liên ngành (còn gọi là bảng IO - input output table) [5] để liên kết mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường được nhiều nhà nghiên cứu đề cập như một công cụ quan trọng trong việc nghiên cứu về phát triển bền vững của một quốc gia [6,7]. Đồng thời các nghiên cứu cũng đã sử dụng mô hình IO để phân tích mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với việc tiêu thụ năng lượng [8,9] hoặc phân tích các mối quan hệ về phát thải giữa các ngành kinh tế 



Tuy nhiên, việc lượng hóa gánh nặng môi trường trong vòng đời của sản phẩm (LCI – life cycle inventory) thông qua công cụ IO còn nhiều tiềm năng để khai thác. Tích hợp hai công cụ này cho phép ta xác định không chỉ phát thải trực tiếp và mà cả phát thải gián tiếp (thông qua mối quan hệ tương tác liên ngành). LCI là phương pháp kiểm kê phát thải của hoạt động sản xuất một sản phẩm cụ thể ra môi trường, đã và đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới [12] và đặc biệt có hiệu quả đối với khí nhà kính (KNK) [13]. Một số nghiên cứu sử dụng LCI kết hợp với phân tích dòng vật liệu trong định lượng KNK phát thải sau tiêu dùng nhựa

Nghiên cứu này khai thác công cụ IO để xác định số liệu sản xuất và tiêu dùng nhựa của các ngành kinh tế Việt Nam, sau đó tích hợp với kỹ thuật LCI để xác định gánh nặng môi trường của ngành nhựa thông qua nhu cầu sử dụng từ các ngành kinh tế khác.

2. Sự phát triển của bao bì nhựa và các ngành khác 

Các ngành công nghiệp (nhựa, giấy, hóa chất và cao su) đều có hệ số liên kết xuôi tăng dần qua các năm. Điều này chứng tỏ có sự chuyển dịch rõ ràng từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp, và các ngành công nghiệp có sự phát triển và đóng góp cho nhiều ngành kinh tế trong giai đoạn 2007-2018.

Trong giai đoạn này, ngành nhựa là một trong những ngành có chỉ số liên kết xuôi và ngược đều cao (>1), điều này chứng tỏ sức ảnh hưởng của ngành nhựa tới các ngành kinh tế khác là tương đối lớn. Cụ thể, ngành nhựa có chỉ số liên kết xuôi cao, tăng mạnh và có xu hướng ổn định trong những năm gần đây (2,107-2,646) cho thấy ngành này cung cấp sản phẩm quan trọng cho các ngành kinh tế khác. Đồng thời, liên kết ngược của ngành lớn hơn 1 và tăng (1,007- 1,211) chứng tỏ sự phát triển của ngành nhựa kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác, vẫn tạo động lực cho sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên, giai đoạn gần đây (2012-2018) liên kết ngược của ngành nhựa có xu hướng giảm nhẹ (1,295-1,211), điều này là do có sự thay đổi trong chính sách tiêu dùng và sản xuất các mặt hàng nhựa, đặc biệt năm 2018 với chính sách hạn chế nhập khẩu nhựa phế liệu làm cho ngành nhựa gặp phải khó khăn về nguyên liệu nhựa phế để sản xuất. Theo Hiệp hội nhựa Việt Nam, sản lượng nhựa phế liệu nhập khẩu về Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2018 đạt 274,7 nghìn tấn, nhưng trong 6 tháng cuối năm chỉ đạt khoảng 107 nghìn tấn [1].



3. Nhu cầu tiêu dùng nhựa  

Nhu cầu tiêu dùng nhựa trong giai đoạn 2007-2018 có xu hướng tăng lên, điều này là động lực thúc đẩy ngành nhựa phát triển mạnh. Kết quả nghiên cứu cầu tiêu dùng nhựa tính trên đầu người giai đoạn 2007-2018 (Hình 3) cho thấy nhu cầu tiêu dùng nhựa tính bình quân trên đầu người tăng từ 34.93 kg/người/năm ở năm 2007 và 108 kg/người/năm vào năm 2018. So với nhu cầu bình quân trên đầu người ở một số quốc gia thì nhu cầu tiêu dùng nhựa tại Việt Nam vẫn còn thấp hơn (Nhật Bản: 128 kg/người/năm, Mỹ: 155 kg/người/ngày, Châu Âu: 146 kg/người/năm [1]), do đó xu hướng ngành nhựa tại Việt nam vẫn có triển vọng phát triển trong thời gian tới.

CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XUẤT NHẬP KHẨU NAM PHÁT
Factory: Số 8, Đường 31,Xã Bình Minh, H. Trảng Bom, Đồng Nai
Office: A75/6b/14 Bạch đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp. HCM
Hotline: 0933 992 090  -  Tel: 025 1629 3977  -  Fax: 025 1629 3976
Web: www.namphatco.vn  -  E: namphatcompany79@gmail.com